HỎI: Người đến tuổi già thời không sinh con, vì tinh lực hết chăng ? Hay tại số Trời?
ĐÁP:
– Con gái 7 tuổi thời Thận-khí đầy đủ, răng đổi tóc dài.
– Hai lần 7 (14 tuổi) thời Thiên quý (1) sinh ra, Nhâm mạch thông, Thái xung mạch thịnh (2) kinh nguyệt đúng kỳ xuống (3) nên mới có con
– Đến năm ba 7 (21 tuổi) Thận khí điều hòa, chân nha mọc hết (4)
– Đến năm bốn 7 (28 tuổi) gân xương đều bền rắn, tóc dài hết mực, thân thể khỏe mạnh
– Đến năm năm 7 (35 tuổi) Dương minh mạch suy, vẻ mặt bắt đầu khô khan, tóc bắt đầu rụng (5)
– Đến năm sáu bảy (42 tuổi) mạch của 3 kinh Dương suy kém ở trên, vẻ mặt khô khan hẳn, tóc bạc (6)
– Đến năm bảy bảy (49 tuổi) Nhâm mạch hư, Thái-xung mạch kém sút, Thiên-quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con. (7)
– Con trai 8 tuổi thời Thận-khí đầy đủ, tóc dài răng đổi. (8)
– Đến năm hai lần tám (16 tuổi) Thận-khí thịnh, Thiên quý đến, tinh khí đầy tràn, Âm Dương hòa nên mới có con. (9)
– Đến năm ba tám (24 tuổi) Thận-khí đều hòa gân xương cứng mạnh, chân nha mọc hết.
– Đến năm bốn tám (32 tuổi) gân xương đầy đủ, cơ nhục nở nang.
– Đến năm năm tám (40 tuổi) Thận-khí suy dần, tóc rụng răng se. (10)
– Đến năm sáu tám (48 tuổi) Dương-khí suy kiệt ở trên, vẻ mặt khô khan, râu tóc lốm đốm trắng.
– Đến năm bảy tám (56 tuổi) Can-khí suy, sự cử động của gân yếu, Thiên quý hết, tinh ít, Thận tạng sút, toàn thân mỏi mệt (11)
– Đến năm tám tám (64 tuổi) răng tóc đều rụng.
– Thận chủ về THỦY (nước), chứa đựng TINH của 5 tạng 6 phủ.
– Năm Tạng có đầy đủ (thịnh) mới có thể tả ra. Giờ 5 tạng đều suy, gân xương rã rời, Thiên quý hết rồi, cho nên râu tóc bạc, thân thể nặng nề, đi đứng không vững mà không có con (12) .
#Chú_Giải
(1)_ THIÊN QUÝ cũng như THIÊN ẤT, đều là chất nước, tức là huyết, là kinh nguyệt. Đàn bà chủ về việc sinh đẻ, thuộc ÂM, mặt trăng cũng thuộc âm. Mặt Trăng có khi tròn khi khuyết, nên Thiên quý cũng theo đó mà đúng kỳ tiết ra, nên gọi là KINH NGUYỆT .
(2)_ THÁI-XUNG: Nhâm mạch là 2 thứ mạch thuộc kỳ kinh
(3)_ Hai mạch này ñều phát sinh từ Tiểu Phúc, do bụng dẫn lên làm một nơi để chứa kinh huyết gọi là HUYẾT HẢI – Nhâm mạch chủ về ràng buộc bào thai, Xung-mạch chủ về huyết hải – Giờ 2 mạch đều đã thông, nên kinh nguyệt mới đúng kỳ xuống mà thụ thai.
(4)_ CHÂN NHA tức là một thứ răng thực, răng mọc sau nhất, chân nó rất sâu – THẬN KHÍ: là một thứ khí do Thận sinh ra – Khí sinh ra bởi TINH, cho nên Thiên quý đến trước rồi Thận khí mới điều hòa đầy đủ; đến lúc đó chân-nha mới mọc.
Lại án: con gái sinh theo số 7 như trên, 7 thuộc về số của THIẾU DƯƠNG – Con gái thuộc Âm, mà tính theo số Dương đó là trong Âm có Dương (trung Âm hữu Dương).
(5)_ Mạch của kinh Dương Minh dẫn lên mặt, vòng lên đầu tóc; cho nên đến lúc suy thời vẻ mặt thành ra khô khan và tóc rụng – Phàm khí thuộc về Dương mà huyết mạch thuộc về Âm, cho nên về con gái thời mạch suy trước mà con trai thời khí suy trước.
Lại án: đường mạch của kinh Túc Dương Minh hợp với 2 mạch XUNG-NHÂM, vòng qua rốn mà đi lên – Nên chi khí Xung-Nhâm đã hư thời Dương Minh cũng phải hư.
(6)_ Mạch của 3 kinh Dương đều dẫn lên đầu, đến khi mạch đó đã suy thời vẻ mặt tất phải khô mà tóc tất phải bạc.
(7)_ ĐỊA ĐẠO: Tức là những mạch thuộc về hạ bộ – Bộ phận dưới ; Lại như thiên TAM BỘ CỮU HẬU nói: “hạ bộ tức chỉ kinh Túc Thiếu Âm THẬN. Thiên quý chứa ở Thận, đến khi Thiên quý hết, tức là các đường mạch của Túc Thiếu Âm thuộc về bộ phận dưới không thông, do đó mới thân thể hao mòn mà không có con.”
(8)_ “TÁM” là số của Thiếu Âm; con trai vốn là Dương mà lại tính theo Âm số, nó là trong Dương có Âm.
(9)_ LINH KHU KINH nói: “Xung mạch, Nhâm mạch đều phát sinh từ trong “BÀO”, dẫn lên phía trong “PHÚC” bên hữu phúc dẫn lên họp ở Yết hầu, chẽ ra dưới miệng và chung quanh môi – Người huyết khí đầy thịnh thời tràn tới ngoài da, làm nóng trong thịt. Người thịnh riêng thời về huyết thống tới ngoài da, mọc thành lông nhỏ. Người đàn bà khí có thừa mà huyết thời thiếu (vì thường tiết ra nguyệt kinh); khiến 2 mạch Xung-Nhâm không đầy đủ ở chung quanh miệng nên mới không có râu”.
Án: Thiên quý tức là ÂM TINH, cho nên tinh khí của con trai cũng gọi là Thiên quý. Như VƯƠNG BĂNG nhận Thiên quý là huyết, thời Thiên quý của con trai cũng là huyết hay sao? Thuyết đó không đúng.
(10)_ Thận là nơi gốc của sinh khí – Con trai suy về bên Khí trước, nên khi Thận-khí suy thời tóc rụng răng se.
(11)_ CAN do THẬN sinh ra (tức Thủy sinh Mộc). Thận-khí suy cho nên mới lây sang Can. Can chủ về GÂN, vì Can-khí suy nên sự cử động của gân phải yếu. Thận chủ về XƯƠNG ; giờ gân với xương đều suy, cho nên toàn thân mới mỏi mệt.
(12)_ Đoạn này nói rõ thêm cái nghĩa Thiên quý của Tiên thiên, phải nhờ sự giúp ích do tân-dịch cùa Hậu-Thiên, vì 5 vị vào TỲ đều dẫn tới cái nơi sở thích của nó. Thận là thủy tạng, thu hút và chứa các chất tinh-dịch của 5 Tạng rồi lại tán bố ra. Chất ấy dẫn lên TÂM, hóa sắc đỏ thành ra máu, máu ấy dẫn tới 2 mạch Xung-Nhâm làm thành cái biển chứa kinh huyết để nuôi cơ nhục và mọc ra tóc lông. Cho nên về bên con trai, khi thiên-quý đã đến thời tinh khí đầy tràn, hóa đỏ làm ra máu dẫn ra Xung-Nhâm mà mọc râu ria. Còn bên con gái, khi Thiên quý đến thì kinh nguyệt đúng kỳ dẫn xuống. Vậy Tinh với Huyết đều gọi là THIÊN QUÝ.
Án: kinh nói: “con đường của VINH HUYẾT chủ ở sự ăn uống. Thức ăn vào VỊ rồi truyền lên PHẾ, tràn ngập ở bên trong, phân tán ra bên ngoài. Cái chất tinh khiết hơn nhất thường lưu thông ở trong kinh (lạc) mạch để thấm nhuần và nuôi nấng cơ nhục. Con trai tám lần tám, con gái bảy lần bảy, cái số của Trời-Đất đã đến cực độ, cho nên Thiên quý hết. Nhưng cái chất Huyết dẫn ở trong kinh mạch vẫn không hết. Cho nên người già cả ăn uống được, Tỳ-Vị khỏe, thời gân xương vẫn còn mạnh”.
Lại án: về con gái, có người đã quá cái giới hạn “bảy-bảy” mà kinh nguyệt vẫn lôi thôi không dứt, đó là do cái huyết ở trong kinh-toại tràn vào Xung-Nhâm mà tiết ra cho nên mặt vàng, mình gầy, xương đau, gân mỏi.
Ta nên nhớ rằng : huyết của Kinh-toại dẫn ở trong mạch, huyết của Xung-Nhâm thấm ra ngoài mạch.
Hoàng Đế Nội Kinh